Những câu hỏi thường gặp về ” Đông y”?

0778899207
Kiến thức

Những câu hỏi thường gặp về ” Đông y”?

           ‘Đông y’ là thuật ngữ được sử dụng song song với ‘Y học cổ truyền’, dùng chỉ nền y học có nguồn gốc Trung Quốc và Việt Nam xưa, để phân biệt với tây y.

    Có phải thuốc đông y luôn luôn có vị đắng?


         Không phải như vậy, nói một cách đơn giản là tính vị của thuốc đông y thường chia thành 5 loại gọi là “ngũ vị” bao gồm vị cay, vị ngọt, vị chua, vị đắng và vị mặn. Vị của thuốc và hiệu năng của thuốc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau:

    – Vị cay: Có tác dụng phát tán, hành khí hoạt huyết (như xuyên khung);

    – Vị ngọt: Có tác dụng bổ ích, hoãn cấp (như cam thảo);

    – Vị chua: Có tác dụng thu liễm, cố sáp (như ngũ vị tử);

    – Vị đắng: Có tác dụng thanh nhiệt, giáng tiết (như hoàng liên);

    – Vị mặn: Có tác dụng nhuyễn kiên, tán kết, tả hạ (như mang tiêu);

    đông y

    Một số người sau khi tẩm bổ bằng thuốc đông y lại xuất hiện một số triệu chứng bất lợi, ví dụ như chảy máu mũi, trường hợp này có thể cho là khi cơ thể hư yếu thì không thể tẩm bổ có phải không?


         Nguyên tắc trị bệnh của đông y là “hư thì bổ, thực thì tả”. Bất luận là điều trị bệnh hay là tẩm bổ thường ngày, đều phải chú ý là hư chứng (hư nhược, suy yếu) thì mới dùng phương pháp tẩm bổ, thực chứng (dư thừa, ứ đọng) thì không nên tẩm bổ.

         Căn cứ vào tổn thương của âm, dương, khí, huyết, mà thuốc bổ đông y có thể chia thành 4 loại tác dụng: Ích khí, bổ huyết, tư âm, bổ dương. Nếu sử dụng phép bổ không phù hợp thì sẽ xuất hiện cái gọi là “hư bất thụ bổ”. Nghĩa là cơ thể hư suy vẫn không thể hấp thụ được chất bổ.

         Ví dụ như một trường hợp bệnh nhân âm hư hỏa vượng, với chứng trạng miệng khô lưỡi táo, hoa mắt chóng mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân và vùng giữa ngực nóng, thì phải dùng thuốc có tính vị cam hàn (ngọt, lạnh) để tư âm thanh nhiệt, trường hợp này nếu như dùng thuốc bổ có tính tân ôn (cay, nóng) và trợ dương, sẽ càng giúp cho hỏa làm tổn thương âm tất sẽ dẫn đến triệu chứng càng nặng hơn, đó là xuất hiện hiện tượng “hư hỏa” bốc lên trên, làm cho chảy máu mũi là vậy.

    Trạng thái “sức khỏe dưới mức bình thường” là gì?


         Sức khỏe dưới mức bình thường nghĩa là sức khỏe cơ thể không được tốt, nhưng chưa biểu hiện đầy đủ các tính chất để được gọi là một bệnh. Ví dụ một người thường xuyên than phiền nhức đầu, chóng mặt hay yếu sức, nhưng khi khám kiểm tra sức khỏe thì không phát hiện bất thường nào. Tuy nhiên theo quan điểm của đông y thì rõ ràng cơ thể đã biểu hiện một trạng thái mất cân bằng về âm dương, khí huyết và tạng phủ.

         So sánh với một người khỏe mạnh, thì người có sức khỏe kém dễ dàng mắc các bệnh về tâm sinh lý hơn. Vì thế đông y rất coi trọng việc dự phòng và loại trừ tình trạng sức khỏe không tốt. Muốn phòng trị tình trạng “sức khỏe dưới mức bình thường”, ngoài việc cần chú trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần, ăn uống điều độ, chế độ làm việc, nghỉ ngơi, vận động rèn luyện hợp lý, thì nên phát hiện và điều trị sớm những rối loạn mất cân bằng của cơ thể.

         Theo đông y “sức khỏe dưới mức bình thường” được phân chia thành các loại hình như sau:

    – Thể can uất khí trệ;

    – Thể đàm thấp nội sinh;

    – Thể tâm tỳ lưỡng hư;

    – Thể can thận âm hư;

    – Thể phế vị khí hư;

    – Thể tỳ thận dương hư,…

    Nếu bạn muốn biết tình trạng sức khỏe của mình bị rối loạn như thế nào, hãy đến thầy thuốc đông y để thăm khám và được tư vấn.

    Có thể lý giải về độc tính và phản ứng phụ của thuốc đông y như thế nào?


         Phần lớn mọi người đều cho rằng dược tính của thuốc đông y thường bình hòa không có độc tính và không có tác dụng phụ khi dùng kéo dài. Điều này hoàn toàn sai lầm! Bất cứ một loại dược vật nào mà chúng ta sử dụng không hợp lý đều có thể gây độc và có phản ứng phụ cả. Ví dụ như nhân sâm là một loại thuốc đại bổ nguyên khí, nếu sử dụng trong trường hợp một người đang sốt cao, miệng đắng, da lở loét, đại tiện táo bón… thì sẽ có thể làm bệnh trầm trọng hơn. Vì vậy trước khi sử dụng loại thuốc đông y nào đều phải có ý kiến của thầy thuốc đông y.

         Gần đây một số báo cáo trên thế giới cho thấy hàm lượng acid Arisolochic có trong Quan Mộc thông (Caulis Aristolochiae Manshuriensis) có thể gây suy thận. Nên biết rằng loại thường được dùng để kê đơn là Xuyên Mộc thông (Caulis Clematidis Armandii), đây là 2 loài khác nhau. Ngoài ra, đông y còn sử dụng một số thuốc có độc tính trong điều trị một số trường hợp, ví dụ như Phụ Tử (Radix Aconiti Lateralis Preparata) và Xuyên Ô (Radix Aconiti) được dùng trong điều trị thấp khớp, những thuốc này đều có sự theo dõi chặt chẽ về liều lượng, cách thức bào chế để tránh các tác dụng có hại. Vì thế việc giám sát chặt chẽ chất lượng thuốc đông y là rất quan trọng.

    đông y
    thuốc đông y cho phụ nữ tiền mãn kinh

    Có phải thầy thuốc đông y chỉ dùng phương pháp “bắt mạch” để chẩn đoán các loại bệnh?


         Bắt mạch đóng một vai trò quan trọng trong chẩn đoán bệnh. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào bắt mạch thì chúng ta chỉ biết được một phần của tình trạng bệnh lý, giúp cho ta có định hướng trong chẩn đoán mà thôi. Ví dụ trường hợp phụ nữ có thai thì có “mạch hoạt”, tuy nhiên “mạch hoạt” cũng thường gặp ở bệnh nhân có trường vị bị đàm thấp…

    Do đó để có một chẩn đoán chính xác, cần thiết phải kết hợp 4 phương pháp khám bệnh, mà đông y gọi là “Tứ chẩn” đó là:

    – Vọng: Nghĩa là thầy thuốc sẽ quan sát thần, sắc, hình thái, mắt, mũi, môi, lưỡi… của bệnh nhân để biết được tình hình bệnh tật bên trong cơ thể biểu hiện ra bên ngoài như thế nào;

    – Văn: Nghĩa là nghe và ngửi, thầy thuốc sẽ nghe tiếng nói, tiếng thở, tiếng ho, tiếng nấc… chú ý đến mùi của hơi thở, mũi, miệng, các chất thải như đờm, phân, nước tiểu để có thể phân biệt được tình trạng của bệnh;

    – Vấn: Hỏi bệnh nhân về bệnh sử, các triệu chứng của bệnh, chú trọng đến hỏi về mồ hôi, hàn, nhiệt…

    – Thiết: Bao gồm bắt mạch và sờ nắn để biết vị trí và tính chất của bệnh, thường xem ở da thịt, tay chân, ngực và bụng…

    Như vậy, thầy thuốc đông y cũng cần phải tổng hợp đầy đủ các dấu chứng, triệu chứng toàn thân rồi mới đưa ra kết quả chẩn đoán.

    Tại sao thầy thuốc đông y có thể sử dụng nhiều loại đơn thuốc khác nhau để điều trị một loại bệnh?


        Thứ nhất, biện luận điều trị của đông y nhắm vào yếu tố cơ địa của từng cá nhân, vì vậy việc lựa chọn loại thuốc cũng như liều lượng trong đơn thuốc có thể tăng hoặc giảm là tùy theo từng cá nhân.

         Thứ hai, theo quan điểm của đông y, những gì chúng ta gọi là bệnh là đại diện cho toàn bộ quá trình của biến đổi bệnh lý, trong khi một hội chứng sẽ phản ánh bệnh lý của bệnh đó ở giai đoạn nhất định. Trong đông y, hội chứng bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng mất cân bằng theo tiêu chuẩn chẩn đoán của đông y, thường được gọi là thể bệnh. Thầy thuốc đông y sẽ điều trị theo một hội chứng (thể bệnh) của bệnh đó thay vì điều trị bệnh.

    đông y

         Ví dụ, bệnh cảm mạo, theo đông y gồm có các hội chứng (thể bệnh): thể phong hàn, thể phong nhiệt hoặc thể cảm mạo do cơ thể suy yếu, phương án điều trị tương ứng với mỗi thể bệnh sẽ khác nhau. Cụ thể: thể phong hàn thì dùng phương án khứ phong tán hàn, thể phong nhiệt thì dùng phương án khứ phong thanh nhiệt, thể cảm mạo do hư suy thì dùng phương án phù chính khử tà, tăng cường ích khí cố biểu trị liệu. Vì vậy các đơn thuốc cũng sẽ khác nhau để điều trị “bệnh cảm mạo” này.
    PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y HOA SEN

    Địa chỉ 1: 33/16 Lý Văn Phức, Phường Tân Định, Quận 1, HCM

    Địa chỉ 2: 95/6 Lương Định Của (Đường D1), Phường An Khánh, Quận 2, HCM

    Hotline: 077.8899.207 – 0932.518.131( Có Zalo)

    Email: yhoccotruyenhoasen@gmail.com

    Website: dongyhoasen.com.vn

    Copyright © PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y HOA SEN.